Lễ hội đền hùng phú thọ diễn ra từ ngày 01đến hết ngày 10 tháng 3 âm lịch, việc tế lễ được tổ chức rất trọng thể vào ngày chính hội (10/3).
Đền Hùng nằm ở trên núi Nghĩa Lĩnh, Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ là nơi hàng năm thường diễn ra lễ hội mang tính chất quốc gia để suy tôn các vua Hùng là người đã có công dựng nước.
Việc tế lễ được tổ chức rất trọng thể vào ngày chính hội (10/3), bắt đầu bằng lễ dâng hương có đại diện của Nhà nước, tại đền Thượng là nơi xưa kia vua Hùng tế trời đất. Ðồ tế lễ ngoài mâm ngũ quả còn có bánh chưng, bánh dày để nhắc lại sự tích Lang Liêu, cũng là nhắc nhở công đức các vua Hùng đã dạy dân trồng lúa.
Phần rước, có nhiều cuộc rước thần, rước voi, rước kiệu… của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích…
Sau tế lễ còn có múa hát xoan (ở đền Thượng), hát ca trù (ở đền Hạ) và nhiều trò chơi khác.
Lễ hội đền hùng phú thọ không chỉ thu hút khách thập phương đến dự lễ bởi những nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc mà còn ở tính thiêng liêng của một cuộc hành hương trở về cội nguồn dân tộc của các thế hệ người Việt Nam. Ðến hội, mỗi người đều biểu hiện một tình thương yêu, lòng ngưỡng mộ về quê cha đất tổ. Ðây là một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức mỗi con người Việt Nam, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu.
Lễ hội đền hùng phú thọ là một lễ hội quốc gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở nước ta. Đó là ngày lễ linh thiêng và cao cả trong tâm thức dân gian Việt Nam. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương “trở về cội nguồn dân tộc” của hàng chực vạn người từ khắp các nơi trong nước và kiều bào sống ở nước ngoài.
Toàn cảnh lễ hội đền hùng phú thọ
Du lịch lễ hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, trong đó mùng 10 là chính hội. Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội gồm có 2 phần : Phần lễ và phần hội.
Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là “lễ tam sinh” (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương du lịch đền Hùng vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng.
Sau phần lễ là đến phần hội, năm nào cũng tổ chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đến kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử hành quốc lễ và đó là niềm tự hào, vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh… Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.
Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau, đều được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp.
Du lịch lễ hội đền hùng phú thọ – Du lịch văn hóa
Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan) – một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.
Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức – phường nổi tiếng – cùng chủ tế đứng trước hương án hát chúc bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ nhang và dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát thờ trước cửa đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình diễn.
Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà,… Những trò đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng…
Lễ hội đền hùng phú thọ là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt. Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành “Thánh địa linh thiêng” của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương du lịch đền Hùng về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.
Lễ hội đền hùng phú thọ hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
Xuyên suốt hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ mà điểm nhấn quan trọng là Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng vào mùng 10- 3 (Âm lịch) hàng năm đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương luôn được gìn giữ, trao truyền và lan tỏa mạnh mẽ, tạo nền tảng vững chắc, tạo động lực cho nước Việt trường tồn, ngày càng phát triển hùng cường…
Xuyên suốt thời gian…
Lịch sử của dân tộc Việt Nam được mở đầu bằng thời đại Hùng Vương với công lao của các Vua Hùng khai sơn, phá thạch, mở mang, bồi đắp xây dựng nên Nhà nước Văn Lang. Khắc ghi công lao to lớn ấy, người Việt đã suy tôn các vua Hùng là Thủy tổ của dân tộc từ hàng nghìn năm trước. Việc thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tập quán, tín ngưỡng và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thuyết tại Đền Hùng kể lại: Sau khi được Vua Hùng thứ 18 nhường ngôi, Thục Phán đã dựng cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thề nguyện sẽ trọn đời bảo vệ giang sơn, gấm vóc mà Vua Hùng trao lại và đời đời hương khói trông nom lăng miếu Tổ tiên. Sang những năm đầu Công nguyên (40-43), Hai Bà Trưng phát động cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Hán đã đọc lời thề trên cửa sông Hát “Một xin rửa sạch nước thù/Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng…”.
Thời Nhà Nguyễn kinh đô đặt tại Huế, năm 1823 Vua Minh Mạng đã cho rước bài vị thờ Hùng Vương vào thờ ở miếu Lịch đại Đế Vương, còn tại Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ. Nghi lễ tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương được quy định cụ thể, chặt chẽ thể hiện sự tôn kính của của các triều đại và nhân dân đối với Tổ tiên.
Đến thời nhà Nguyễn, định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của thập kỷ), đến năm Khải Định thứ 2 (1917) đã ấn định ngày mồng 10 tháng 3 (Âm lịch) hàng năm làm ngày Quốc lễ, tức trước ngày Giỗ Tổ Hùng Vương một ngày, còn ngày giỗ 11 tháng 3 (Âm lịch) do dân sở tại làm lễ…
Ngay sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 18-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 22C NV/CC quy định về những ngày lễ lớn hàng năm, trong đó có ghi Giỗ Tổ Hùng Vương được nghỉ 1 ngày.
Ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Đền Hùng, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngày nay, Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm là ngày lễ lớn-Quốc lễ của cả nước và được Chính phủ quy định cụ thể về quy mô tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương theo năm chẵn, năm tròn và năm lẻ.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn luôn được trao truyền, chiếm vị trí thiêng liêng nhất trong đời sống tinh thần của người Việt, có sức sống lâu bền và ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân. Yếu tố nội sinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương góp phần quan trọng hun đúc lòng tự hào và tạo nên tinh thần đoàn kết, yêu nước thương nòi, dân tộc Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng, cùng một bọc mẹ sinh ra luôn được bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: “Con người có Tổ, có Tông, như cây có cội, như sông có nguồn”, “Cây có cội, nước có nguồn”… Ý thức người Việt thờ cúng các Vua Hùng cũng chính là để tôn vinh dân tộc mình.
Lan tỏa không gian
Tri ân công đức tổ tiên, ngàn đời nay người Việt đã lập đền thờ và thờ cúng bậc Tổ chung của mình-các Vua Hùng tại non thiêng Nghĩa Lĩnh (xã Hy Cương, TP Việt Trì). Các ngôi Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, Đền Giếng thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng ra đời gắn với quá trình phát triển của các làng xã quanh khu vực. Từ đỉnh núi Hùng-Trung tâm thờ tự các vua Hùng đầu tiên này, theo dòng chảy thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần dần lan tỏa tới các địa phương khác.
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nay trong cả nước có 1.417 di tích thờ Hùng Vương và vợ con, tướng lĩnh thuộc thời đại Hùng Vương. Riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 345 di tích gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, trong đó có 249 di tích đang thờ tự. Phú Thọ là tâm điểm của thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với những hoạt động Lễ-Hội diễn ra trang nghiêm, thành kính tại các ngôi đền trên núi Hùng và các di tích thờ Hùng Vương ở tỉnh, thu hút hàng triệu đồng bào cả nước và kiều bào tham gia trong dịp Giỗ Tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng hàng năm.
Cùng với Phú Thọ, để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng, các địa phương có điểm thờ Hùng Vương đều tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng. Giỗ Tổ Hùng Vương đã thực sự trở thành ngày hội của đồng bào cả nước với nhiều chương trình, hoạt động văn hóa, nghệ thuật truyền thống, hoạt động văn hóa dân gian của các vùng miền dân tộc.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm, vượt qua biên giới quốc gia, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã và đang trở thành điểm tựa tâm linh, giá trị văn hóa truyền thống, sợi dây kết nối bền chặt để “cả nước hướng về Đền Hùng và từ Đền Hùng nhìn ra cả nước”. Con Lạc cháu Hồng cùng chung vai góp sức gìn giữ, phát triển giang sơn giàu đẹp thỏa ước nguyện của các bậc tiền nhân.
Bài viết ttreen đã giới thiệu đầy đủ về Lễ hội đền hùng phú thọ, hy vọng sẽ mang đến những thông tin hữu ích cho các bạn. Chúc các bạn có ngày làm việc vui vẻ!