Chùa Hương là một trong những danh thắng lịch sử, điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, được rất đông du khách gần xa quan tâm, đặc biệt là vào mùa lễ hội hằng năm. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ tới bạn một số thông tin để bạn biết được chùa hương ở đâu, chùa Hương thờ ai cũng như lịch mở cửa, giá vé đò, vé cáp treo như thế nào. Mời bạn cùng theo dõi nhé.
Chùa hương ở đâu?
Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp.
Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ở ven bờ phải sông Đáy. Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.
Chùa Hương là tên gọi chung cho cả một quần thể văn hóa, tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật cùng các ngôi đình, đền linh thiêng khác như chùa Thiên Trù, đền Trình, chùa Giải Oan… Trung tâm của quần thể này chính là chùa Hương, nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.
Lịch sử và sự tích chùa Hương
Chùa Hương gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba. Theo truyền thuyết, ở vùng “Linh sơn phúc địa này” đã có công chúa Diệu Thiện, tục gọi là Chúa Ba, ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm đã vào tu hành 9 năm và đắc đạo thành Phật đi cứu độ chúng sinh vào đúng ngày Phật Đản 19 tháng 2 Âm lịch.
Tháng 3 năm Canh Dần 1770, Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm tuần du Trấn Sơn Nam đã vào động Hương Tích thắp hương và vãn cảnh. Chúa cũng đề lên vách đá ngoài cửa động 5 chữ “Nam Thiên Đệ Nhất Động”.
Có thể nói rằng chính Chúa Trịnh Sâm là người đã đưa động Hương Tích thành một di tích lớn và cũng đặt nền móng cho sự phát triển của lễ hội chùa Hương về sau. Kể từ khi Chúa Trinh Sâm đặt chân tới động Hương Tích, hằng năm cứ vào mùa xuân, du khách gần xa lại kéo tới nơi này rất đông để dâng hương cũng như thăm thú, thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ, hữu tình.
Thời xưa, hội chùa Hương thường được mở sau ngày lễ hội khai sơn của làng Yến Vỹ vào ngày mùng 6 tháng Giêng. Cho tới nay, lễ hội chùa Hương cũng vẫn được diễn ra vào ngày mùng 6 tháng Giêng hằng năm.
Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947. Năm 1988 chùa được phục dựng lại do hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố hoà thượng Thích Thanh Chân.
Mọi người thường cho rằng chùa Hương có từ cuối thế kỷ 17 nhưng thực ra Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15. Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.
Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù.
Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”.
Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng.
Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Nội từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương Tích “phiên bản” ở phía Bắc? Câu trả lời là vào thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh – Nghệ – Tĩnh thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những “người đẹp” đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Sơn Bình để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các “người đẹp” đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN). Như vậy nhờ “sáng kiến” của chúa Trịnh mà Việt Nam có hai chùa Hương Tích.
Thuyết này có phần vô lý, vì đời vua Lý Thánh Tông đã đến Vùng Hà Tây ngày nay và ngự đặt tên Thiên Trù. Trong tín ngưỡng dân gian, các thầy pháp, thầy thống, thậm chí nhà sư,… đều về Vùng Hương Tích – Hà Tây để tìm mua phong khương, địa liền để hành phù, chữa bệnh. Nếu như Hương Tích thật ở Hà Tĩnh thì không thể có hành động này được. Vì tín ngưỡng miền Bắc cho rằng, khi Quan Âm nhập động đã phun nước từ kim khẩu tưới cây nên phong khương, địa liền ở đây có linh tính, rất tốt. mà truyền thuyết của dân gian thì khó mà ảnh hưởng bởi mệnh lệnh hành chính mà bị sai lệch được. Chùa Hương Hà Tây là một ngôi chùa trọng yếu trong tâm linh dân gian Việt Nam. Dân gian thường truyền tụng: “Trấn trạch chùa Nhang, trùng tang Liên Phái”, … Trong khi đó, chùa Hương – Hà Tĩnh lại ít ai biết đến, không có dấu ấn trong văn hóa Việt Nam. Tóm lại, Tên hai chùa có phần giống nhau nhưng mỗi chùa đều có bề dày lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, kiến trúc Phật giáo, cảnh sắc riêng, không thể gọi là bản gốc hay bản sao.
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù (tọa độ: 20°37′5″B 105°44′49″Đ). Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái. Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.[1]
Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên (tọa độ: 20°36′47″B 105°44′4″Đ). Ở lối xuống hang có cổng lớn, trán cổng ghi 4 chữ Hương Tích động môn. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán 南天第一峝 (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Chùa Hương thờ ai?
Chùa Hương thờ ai? Đền Trình chùa Hương thờ ai? Đây là câu hỏi mà rất nhiều người đặt ra khi tới với danh thắng chùa Hương.
Động Hương Tích thờ Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh được tạc vào thời Tây Sơn Cảnh Thịnh năm thứ 2 (1793).
Đền Trình chùa Hương thờ vị Thần tướng là Quan Tư Mã Hùng Lang, người đã có công đánh giặc Ân phò vua Hùng Vương thứ VI.
Đền Cửa Võng (hay đền Vân Song) thờ bà Chúa rừng có hiệu là Thượng Ngàn Vân Hương công chúa Lê Mai Thánh Mẫu.
Chùa Thiên Trù (hay chùa Trò), chùa Ngoài là một thiền viện lớn, nơi cho các nhà tu hành đạo Phật, lưu giữ kinh, luật, luận của đạo Phật tu tập.
Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ cùng tín ngưỡng cá thần.
Quần thể chùa Hương gồm những gì?
Du khách khi đến với chùa Hương có thể hành hương theo nhiều tuyến đường khác nhau. Tuyến chính là từ bến Đục nằm ở bên bờ sông Đáy. Đây chính là cửa ngõ để vào khu danh thắng chùa Hương. Trên đường từ bến Yến vào bến Trò, bạn có thể dừng chân ở đền Trình trên núi Ngũ Nhạc. Đây chính là đền thờ thần núi.
Từ bến Trò đi bộ lên chùa Trò (hay chùa Thiên Trù, chùa Ngoài). Bài đường và hậu cung của ngôi chùa này mới được xây dựng lại. Giữa điện thờ Phật ở chùa Thiên Trù có tượng Quan Âm Nam Hải bằng đá, tạc theo mẫu trong chùa Hương Tích nhưng được phóng to gấp 2,5 lần và cao đến 2,8m.
Gần chùa Thiên Trù có núi Cô Tiên, và chùa Tiên ở trong hang. Trong chùa có 5 pho tượng tạc bằng đá dựa theo truyền thuyết Bà Chúa Ba Diệu Thiện. Tượng Bà Chúa Ba ở giữa, phía trước là bà chị cả Diệu Thanh cưỡi sư tử xanh và tượng người chị thứ hai Diệu Âm cưỡi voi trắng. Phía sau là tượng vua cha và hoàng hậu mẹ của bà Chúa Ba.
Ở giữa chùa Thiên Trù đến động Hương Tích là chùa Giải Oan. Ở đây có giếng nước trong vắt gọi là Long Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan.
Từ chùa Thiên Trù đi theo đường núi quanh co khoảng 2km là tới động Hương Tích (chùa Trong). Ngoài ra, từ chùa Thiên Trù còn có lối rẽ qua rừng mơ tới chùa Hinh Bồng.
Lễ hội chùa Hương kéo dài bao lâu?
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật – nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành.[2]
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này, vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ “mở cửa rừng” hàm chứa ý nghĩa mới – mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Thông thường, lễ hội chùa Hương kéo dài từ mùng 6 tháng Giêng tới hạ tuần tháng 3 Âm lịch. Cao điểm nhất của mùa lễ hội chùa Hương là từ rằm tháng Giêng cho tới 18 tháng 2 Âm lịch.
Vào mùa hội chính, ở chùa Trong sẽ tổ chức dâng hương, hoa, đèn, nến, hoa quả cùng đồ ăn chay. Trong lễ hội cũng có nghi thức rước lễ và rước văn.
Tìm hiểu chùa hương ở đâu, tới đây khách tham quan sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa, hòa mình với không gian thanh bình, tĩnh lặng của chốn thiền môn. Nhờ sở hữu những giá trị tâm linh, ý nghĩa tín ngưỡng và danh thắng tuyệt đẹp mà chùa Hương trở thành điểm đến không thể thiếu ở Hà Nội. Nếu có dịp ra thủ đô, du khách nên đến chùa Hương ít nhất một lần. Chắc chắn du khách sẽ không bao giờ hối hận khi phải nhọc công vượt qua quãng đường xa xôi, hiểm trở để đến đây.